1. Home
  2. Tin tức pháp luật
  3. Văn bản pháp luật

Bình luận Án lệ số 44/2021/AL về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố

2231 Văn bản pháp luật

Bình luận Án lệ số 44/2021/AL về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố
MỤC LỤC

1. Tóm tắt nội dung vụ án

Theo đơn khởi kiện ngày 24/6/2010 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Công ty cổ phần H do người đại diện trình bày:

Ngày 29/01/2008, Công ty cổ phần H và Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P ký Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01-2008/PLC-HDC, với nội dung: Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P (bên Tư vấn) có trách nhiệm thiết kế toàn bộ Dự án “Trung tâm Thương mại - Khách sạn 4 sao HD - Hotel” trên khu đất diện tích 8.971m2 tại D7, phường X, quận T, thành phố Hà Nội, do Công ty cổ phần H là Chủ đầu tư. Tổng giá trị Hợp đồng là 1.754.550 USD (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng), được phân bổ theo 3 giai đoạn thực hiện: Giai đoạn 1 - Thiết kế xây dựng; Giai đoạn 2 - Thiết kế nội thất cảnh quan; Giai đoạn 3 - Giám sát tác giả.

Theo đó, Giai đoạn 1 (Thiết kế xây dựng), phí thiết kế là 1.191.822 USD (được ký hiệu là A); phí giám sát tác giả là 62.728 USD (ký hiệu AA) được chia làm 12 đợt (từ “Thanh toán lần 1” cho đến “Thanh toán lần 12”), trong đó:

- Thanh toán lần 1: 25% x A ngay sau khi ký Hợp đồng và bên Tư vấn đã nộp Chứng thư Ngân hàng bảo lãnh Hợp đồng, các Hợp đồng bảo hiểm cho Chủ đầu tư.

- Thanh toán lần 2: 5% x A sau khi nộp Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc cho Chủ đầu tư và được Chủ đầu tư chấp thuận.

- Thanh toán lần 3: 10% x A sau khi nộp Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc lên Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội hoặc các cơ quan chức năng có thẩm quyền tương đương và Hồ sơ trên được thẩm tra phê duyệt.

Quá trình thực hiện ở Giai đoạn 1 (Thiết kế xây dựng), Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã giao nộp cho Công ty cổ phần H các Hợp đồng bảo hiểm, Chứng thư Ngân hàng bảo lãnh Hợp đồng và Hồ sơ thiết kế quy hoạch tổng mặt bằng và phương án kiến trúc của Dự án. Công ty cổ phần H đã chuyển tiền thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P được 02 đợt: Thanh toán lần 1 (25% x A và thuế giá trị gia tăng, theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 0081905 ngày 27/02/2008); thanh toán lần 2 (5% x A và thuế giá trị gia tăng, theo Hóa đơn giá trị gia tăng số 0081909 ngày 18/8/2008). Tổng số tiền của 2 lần thanh toán nêu trên là 396.751,75 USD, tương đương với 6.374.689.675 đồng quy đổi theo tỷ giá VND/USD tại thời điểm thanh toán. Sau đó, do thay đổi quy mô Dự án và hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc điều chỉnh giá trị hợp đồng cho thiết kế mới nên Công ty cổ phần H đơn phương chấm dứt Hợp đồng và có tranh chấp với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về giá trị thanh toán.

Công ty cổ phần H cho rằng ở đợt Thanh toán lần 1, Công ty cổ phần H đã tạm ứng thanh toán thừa so với khối lượng công việc thực tế Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã thực hiện. Nay Công ty cổ phần H chỉ chấp nhận thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P số tiền chiếm khoảng 8% phí thiết kế xây dựng (8% x A) cho cả 2 lần thanh toán (lần 1 và lần 2). Ngoài ra, Công ty cổ phần H chấp nhận chịu khoản tiền phạt tương đương với 1 % giá trị Hợp đồng do Công ty cổ phần H đơn phương chấm dứt Hợp đồng. Do đó, Công ty cổ phần H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P hoàn trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền mà Công ty cổ phần H đã thanh toán thừa cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P là 278.841,8 USD (sau khi đối trừ số tiền đã tạm ứng với số tiền được thanh toán).

Bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P do người đại diện trình bày:

Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại tiền của nguyên đơn với lý do đây là tiền Công ty cổ phần H đã thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P theo tiến độ thỏa thuận trong Hợp đồng, không phải là tiền tạm ứng. Ngoài ra, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có Đơn phản tố, yêu cầu Công ty cổ phần H ngoài việc phải chịu khoản tiền phạt tương đương với 1% giá trị Hợp đồng do đơn phương chấm dứt Hợp đồng, Công ty cổ phần H phải tiếp tục thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đợt Thanh toán lần 3 (10% phí thiết kế) do Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đã hỗ trợ xong về mặt kỹ thuật để phê duyệt Hồ sơ thiết kế của Dự án. Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P cho rằng việc không trình Hồ sơ thiết kế cho cấp có thẩm quyền dẫn đến Hồ sơ thiết kế này không được phê duyệt là hoàn toàn do lỗi của Công ty cổ phần H.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội quyết định:

Chấp nhận đơn khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P phải hoàn trả cho Công ty cổ phần H số tiền tạm ứng của Hợp đồng số 01-2008/PLC-HDC ký ngày 29/01/2008 là 272.571,41 USD tương đương với 5.642.228.187 đồng. Bác yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P đối với Công ty cổ phần H.

Ngày 01/7/2011, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 60/2014/KN-KDTM ngày 15/9/2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 18/2015/KDTM-GĐT ngày 26/3/2015, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 27/2011/KDTM-PT ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2011/KDTM-ST ngày 20/6/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội quyết định:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về việc buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P phải trả lại cho Công ty cổ phần H số tiền 6.308.478.665 đồng.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P buộc Công ty cổ phần H thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P (tính đến ngày 20/11/2019), tổng cộng là: 4.086.860.560 đồng.

3. Ngoài số tiền Công ty cổ phần H phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P như trên, Công ty cổ phần H còn phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P số tiền lãi của số tiền 1.599.420.000 đồng kể từ ngày 21/11/2019 cho đến khi thanh toán xong theo mức lãi suất chậm thanh toán mà các bên đã thỏa thuận là 12%/năm.

4. Đối với số tiền bồi thường (theo Điều 2.8.5b, điều kiện chung của Hợp đồng tư vấn thiết kế số 01/2008/PLC-HDC ngày 29/01/2008) là 406.704.690 đồng thì kể từ ngày Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi Công ty cổ phần H thanh toán xong, Công ty cổ phần H còn phải thanh toán tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/12/2019, Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P và Công ty cổ phần H đều có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm về cách tuyên đối với nghĩa vụ chịu lãi chậm thi hành án.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần H đối với Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P về việc buộc Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng phải trả lại số tiền 6.308.478.665 đồng.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P. Công ty cổ phần H phải thanh toán cho Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P các khoản: 1.599.420.000 đồng (tiền thanh toán giai đoạn 03 của Hợp đồng tư vấn thiết kế) + 2.080.735.870 đồng (lãi suất chậm trả) + 406.704.690 đồng (tiền phạt do đơn phương chấm dứt hợp đồng). Tổng cộng: 4.086.860.560 đồng.

Ngày 02/11/2020, Công ty cổ phần H có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 02/KNGĐT-VC1-KDTM ngày 02/3/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

- Quyết định Giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại Hà Nội cụ thể như sau:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 02/QĐKNGĐT-VC1-KDTM ngày 02/3/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

2. Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 82/2020/KDTM-PT ngày 15+19/6/2020 của Tòa án nhân dân thanh phố Hà Nội và hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 32/2019/KDTM-ST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp hợp đồng tư vấn thiết kế” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần H với bị đơn là Công ty TNHH Thiết kế và Xây dựng P.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

3. Nội dung án lệ

“[2] Về yêu cầu phản tố, nhận định của Tòa án cấp phúc thẩm tại Bản án số 82/2020/KDTM-PT về việc yêu cầu phản tố không bị giới hạn bởi thời hiệu khởi kiện (tr. 15) là không đúng. Theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu phản tố là yêu cầu không nằm trong yêu cầu của nguyên đơn, có thể được giải quyết bằng một vụ án độc lập; việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng vụ án là để kết quả giải quyết chính xác và nhanh hơn. Yêu cầu phản tố cũng chính là yêu cầu khởi kiện nên phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện. Do đó, trường hợp có yêu cầu phản tố và có đương sự trong vụ án đề nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện thì Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định xem yêu cầu phản tố có còn thời hiệu khởi kiện hay không mới đúng quy định pháp luật.”

4. Khái quát về phản tố trong BLTTDS

4.1. Quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn

Theo Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.”. 

Sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án hoặc sau khi nhận được thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu độc lập của Tòa án thì bị đơn phải nộp cho Tòa văn bản ghi ý kiến của mình với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tức là bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Bên cạnh đó, bị đơn còn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

4.2. Điều kiện của yêu cầu phản tố

Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

-  Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập

Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

- Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập

Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn,người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vì không có căn cứ.

- Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.

5. Bình luận Án lệ số 44/2021/AL

Nội dung án lệ số 44 đề cập đến việc yêu cầu phản tố có cần tuân thủ quy định của thời hiệu khởi kiện hay không? Án lệ có ý nghĩa rất lớn trong việc áp dụng pháp luật vì hiện nay trong thực tiễn xét xử, có hai luồng quan điểm khác nhau về việc xác định thời hiệu đối với yêu cầu phản tố của bi đơn trong vụ án dân sự, thương mại.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Yêu cầu phản tố cũng phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện

Theo một thẩm phán TAND quận Gò Vấp (TP.HCM), điểm b khoản 3 Điều 159 BLTTDS quy định thời hiệu khởi kiện là hai năm kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp. Đồng thời, theo khoản 4 Điều 60 và khoản 1 Điều 176 BLTTDS, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Yêu cầu phản tố có thể được hiểu là bị đơn “kiện lại” nguyên đơn để bù trừ nghĩa vụ, khấu trừ nghĩa vụ hoặc loại trừ một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn cũng chính là yêu cầu khởi kiện. Nếu yêu cầu phản tố đã quá thời hiệu khởi kiện thì tòa sẽ không chấp nhận.

Đồng tình, luật sư Huỳnh Kim Nga (Đoàn Luật sư TP.HCM) bổ sung: Bị đơn cũng phải thực hiện nghĩa vụ đóng tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố của mình. Như vậy, yêu cầu phản tố cũng là yêu cầu khởi kiện nên yêu cầu này cũng phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện theo Điều 159 BLTTDS.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Yêu cầu phản tố không phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện vì thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Ngược lại, luật sư Châu Quý Quốc và luật sư Cao Quang Thuần (Đoàn Luật sư TP.HCM) đều cho rằng vụ kiện được bắt đầu bằng việc khởi kiện của nguyên đơn. Sau khi tòa thụ lý, bị đơn phải tìm hiểu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là gì để từ đó chấp nhận hay có yêu cầu phản tố. Khoản 3 Điều 176 BLTTDS đã quy định: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trong bất kỳ thời gian nào trước khi tòa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Như vậy, thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không áp dụng với yêu cầu phản tố của bị đơn.

Đồng tình, TS Nguyễn Văn Tiến (Trường ĐH Luật TP.HCM) phân tích: Yêu cầu phản tố là một quyền của bị đơn và không bị hạn chế về thời hiệu. Trong các vụ kiện, bị đơn luôn ở thế bị động, phụ thuộc vào các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn có đưa ra yêu cầu khởi kiện thì bị đơn mới biết mà có yêu cầu phản tố. Nói cách khác, yêu cầu phản tố luôn luôn có sau yêu cầu khởi kiện, khi nào có yêu cầu khởi kiện thì mới phát sinh yêu cầu phản tố.

Tuy nhiên, quan điểm của nhiều thẩm phán vẫn là yêu cầu phản tố cũng là một yêu cầu khởi kiện ngược của bị đơn nên phải chịu sư điều chỉnh của quy định của BLTTDS về thời hiệu khởi kiện.

Sở dĩ xác định yêu cầu phản tố như một yêu cầu khởi kiện vì:

- Thủ tục yêu cầu phản tố được thực hiện theo quy định của BLTTDS về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn muốn đưa ra yêu cầu phản tố phải thể hiện bằng đơn có nội dung giống với đơn khởi kiện, phải nộp tạm ứng án phí nếu không thuộc trường hợp được miễn, rồi kèm theo đơn phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

- Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của BLTTDS.

- Bị đơn có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác nếu yêu cầu phản tố không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án. 

Như vậy, bản chất của yêu cầu phản tố chính là yêu cầu khởi kiện của bị đơn đối với nguyên đơn, yêu cầu này không phát sinh trên cơ sở của yêu cầu khởi kiện, nó là yêu cầu độc lập với yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu phản tố có thể được giải quyết bằng một vụ án khác. Mục đích của yêu cầu phản tố là để bù trừ hoặc loại trừ yêu cầu của nguyên đơn. Việc giải quyết yêu cầu phản tố trong cùng vụ án là để nhanh hơn, chính xác, thuận tiện hơn cho đương sự. Do yêu cầu phản tố là một yêu cầu khởi kiện nên cũng phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện.

Án lệ số 44/2021/AL ra đời đã bổ sung khiếm khuyết cho pháp luật để các Thẩm phán áp dụng thống nhất và không gây ra tranh cãi về việc xác định yêu cầu phản tố phải tuân thủ quy định về thời hiệu khởi kiện.

NTQ


HÃY GỌI 088 995 6888 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN MIỄN PHÍ
Công ty Luật TNHH Youth & Partners
Thời gian – Tận tâm – Tận lực
Hotline: (+84) 88 995 6888
Email: thanhnv@vinhphuclawyers.vn | vinhphuclawyers.vn
Địa chỉ: 170 Nguyễn Văn Linh, Liên Bảo, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc